1. Lần đầu tiên đã nghiên cứu một cách hệ thống sự tạo phức của 12 NTĐH với L-isolơxin và tính toán gần đúng giá trị hằng số bền bậc 1 của 12 phức chất (LnIle2+) ở nhiệt độ 25oC (I = 0,1; KNO3).
2. Lần đầu tiên đã tổng hợp được 12 phức rắn đất hiếm với L-isolơxin trong hệ dung môi etanol-nước, xác định thành phần và đề xuất công thức phân tử dự kiến của các phức rắn thu được H3LnIle3(NO3)3.3H2O.
3. Việc phối hợp phổ IR, Raman, 13C-NMR, 1H-NMR để nghiên cứu các phức chất đã tổng hợp cho thấy, phức chất đã tổng hợp là dạng phức vòng càng (chelat). Phối tử L-isolơxin tự do tồn tại ở dạng ion đẳng điện, khi tạo phức với các ion nguyên tố đất hiếm Ln3+ mỗi phân tử L-isolơxin chiếm hai vi trí phối trí và liên kết với ion Ln3+ qua nguyên tử nitơ của nhóm amin (-NH2) & nguyên tử oxi của nhóm cacboxyl (-COO-). Liên kết Ln-O mang đặc tính liên kết ion là chủ yếu.
4. Lần đầu tiên đã xác định được khả năng kích thích tăng trưởng nấm dược liệu - Hericium erinaceus (nấm đầu khỉ) của một số phức chất tổng hợp được.
Các phức chất của La3+ và tổng đất hiếm nhẹ Đông Pao Ln3+ đều có tác động rõ rệt tới sự sinh trưởng và phát triển nấm.
Khi sử dụng chúng ở mức thấp (100-200 ppm NTĐH), các phức chất có tác dụng kích thích sự phát triển. Tuy nhiên khi sử dụng mức cao hơn, các hợp chất đất hiếm đều có tác động ức chế sự sinh trưởng & phát triển của nấm và gây chết khi sử dụng ở mức cao. Với lượng sử dụng tối ưu, các phức chất cho phép tăng năng suất thu hoạch nấm từ 16-21%.
Các hợp chất (phức chất, muối nitrat) của các NTĐH nhẹ đều có hoạt tính kích thích sự phát triển và năng suất thu hoạch nấm Hericium erinaceus. Tuy nhiên, mức độ tác động của các phức chất đều cao hơn so với các muối nitrat tương ứng và cho phép tăng năng suất thu hoạch thể quả nấm lên 5 ữ 6 %.