Bài nghiên cứu này khảo sát 779 thành ngữ mà ngoài các nghĩa biểu hiện ra, chúng còn chứa hàm ý khen (21 chủ đề) hoặc chê (51 chủ đề) của người nói đối với người được nói tới. Chúng tôi thấy:
Trong 137 thành ngữ có hàm ý khen thì khen về phẩm chất, nhân cách, hành vi, thái độ ứng xử… nhiều hơn (76 đơn vị), so với khen về các đặc điểm thuộc tính hình thức (61 đơn vị). Sự biểu hiện của các thành ngữ có hàm ý khen thường rất ước lệ, ít thành ngữ có ý nghĩa miêu tả cụ thể.
642 thành ngữ có hàm ý chê thì chê về phẩm chất, đạo đức, nhân cách, trí tuệ, hành vi, thái độ ứng xử của con người là chủ yếu (595 đơn vị). Số có hàm ý chê về hình thức (gồm cả chê về sức khỏe) rất ít ỏi: 47 đơn vị.
Về cấu trúc hình thức, các thành ngữ so sánh (ví dụ: khinh khỉnh như chĩnh mắm thối) chiếm tỷ lệ rất nhỏ (107 đơn vị); phần còn lại (672 đơn vị), đều là các thành ngữ ẩn dụ (ví dụ: theo đóm ăn tàn...). Sự biểu hiện nghĩa của thành ngữ có hàm ý chê bai rất giầu hình ảnh và tinh tế, hết sức sắc sảo.
Những tư liệu được khảo sát, phần nào đó, có thể cho thấy cách thể hiện về mặt ngôn ngữ và một số điểm về triết lý nhân sinh của người Việt qua một bộ phận từ vựng là các thành ngữ của họ.